Khái quát về nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”
Ô nhiễm môi trường là một vấn đề cấp bách hiện nay. Việc đặt ra những chi phí khắc phục là cần thiết nhằm góp phần giảm thiểu và khắc phục hậu quả của ô nhiễm môi trường. Và một trong những nguyên tắc để xác định chủ thể chịu chi phí đó chính là nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trải tiền”. Chi phí của các vấn đề môi trường được chuyển cho cộng đồng hoặc cho các thế hệ sau trừ khi nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” được áp dụng. Sau đây là một số thông tin pháp lý về nguyên tắc này.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền là gì?
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền yêu cầu những người gây ra bất kỳ ô nhiễm nào cũng phải trả tiền cho hậu quả. Nguyên tắc này ảnh hưởng đến bất kỳ loại ô nhiễm nào, dù là đất, không khí hay nước. Ví dụ, nếu một cơ sở công nghiệp tạo ra bất kỳ chất thải hoặc hóa chất độc hại nào dưới dạng sản phẩm phụ trong quá trình hoạt động của họ, thì họ phải đảm bảo xử lý an toàn các sản phẩm độc hại đó.
Nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” là một thực tiễn được chấp nhận phổ biến mà những người gây ra ô nhiễm phải chịu chi phí quản lý để ngăn ngừa thiệt hại cho sức khỏe con người hoặc môi trường. Ví dụ, một nhà máy sản xuất một chất có khả năng gây độc như một sản phẩm phụ của các hoạt động của nó thường phải chịu trách nhiệm về việc loại bỏ nó một cách an toàn. Nguyên tắc trả tiền cho người gây ô nhiễm là một phần của bộ các nguyên tắc rộng hơn nhằm hướng dẫn phát triển bền vững trên toàn thế giới.
Nguồn gốc của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền:
Nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền (Polluter-Pays Principle: PPP) có xuất phát điểm là một nguyên tắc kinh tế về phân bổ chi phí, được đề xuất nhằm “nội hóa” các khoản chi phí thiệt hại môi trường, vốn thường bị người sản xuất gây ô nhiễm môi trường bỏ qua và không được phản ánh trong giá cả hàng hóa liên quan. Quá trình “nội hóa” chi phí theo nguyên tắc PPP có thể được hiểu là người sản xuất gây ô nhiễm buộc phải chi trả cho các chi phí môi trường phát sinh do hành vi gây ô nhiễm của họ, từ đó những khoản chi phí này được phản ánh trong số sách kế toán và đưa vào giá thị trường của các giao dịch kinh tế liên quan. Việc phải chi trả cho vấn đề ô nhiễm môi trường sẽ tạo ra động lực kinh tế cho người gây ô nhiễm điều chỉnh hành vi gây ô nhiễm của họ, nhờ đó giảm thiểu vấn đề ô nhiễm môi trường.
Từ một nguyên tắc kinh tế, nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền đã dần được công nhận rộng rãi trên thế giới như là một nguyên tắc pháp lý cơ bản trong hệ thống pháp luật về môi trường. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organisation for Economic Co-operation and Development: OECD) đã đưa ra đề xuất áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền từ những năm đầu thập kỷ 1970s. Các nỗ lực liên tục của Tổ chức OECD trong khoảng thời gian hai thập kỷ đã đưa nguyên tắc PPP trở thành một nguyên tắc pháp lý. Nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền đã được áp dụng chính thức tại Châu Âu trong Đạo luật về Một Châu Âu đồng nhất năm 1987; và ở phạm vi quốc tế nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Nguyên tắc 16 của Tuyên bố chung Rio của Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển năm 1992 (Luppi và cộng sự, 2012). Hiệp định thư Kyoto về ứng phó với biến đổi khí hậu năm 1992 cũng là một ví dụ về các quy định quốc tế đã áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền. Trong khoảng 25 năm kể từ Tuyên bố chung Rio 1992, nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền đã được áp dụng rộng rãi trong hệ thống pháp luật môi trường của nhiều quốc gia trên thế giới (Zahar, 2018).
Nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền, như hàm ý của tên gọi, đòi hỏi người gây ô nhiễm phải chi trả các chi phí phát sinh do vấn đề ô nhiễm môi trường mà họ gây ra. Khi là một nguyên tắc pháp lý và được đưa vào các quy định pháp luật, nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền sẽ được đảm bảo thực thi bởi hệ thống bộ máy thực thi luật pháp, nhờ đó người gây ô nhiễm sẽ buộc phải chi trả các khoản chi phí phát sinh do ô nhiễm. Các chi phí phát sinh do ô nhiễm có hàm ý rộng, và trong thực tế cách diễn giải về các khoản chi phí mà người gây ô nhiễm phải trả cũng rất đa dạng.
Để giúp trả lời người gây ô nhiễm chi trả các khoản chi phí nào, Zahar (2018) đã tổng kết khái quát hai cách hiểu chính về các khoản chi phí phát sinh do ô nhiễm mà người gây ô nhiễm phải trả. Theo nghĩa hẹp, người gây ô nhiễm phải trả: (1) chi phí của các biện pháp ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm do họ thực hiện nhằm tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường; (2) chi phí thiệt hại do vấn đề ô nhiễm môi trường gây ra, bao gồm cả những thiệt hại trong trường hợp tai nạn hay sự cố môi trường. Theo nghĩa rộng thì ngoài 2 khoản chi phí trên, người gây ô nhiễm còn phải trả các chi phí của cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm bảo thực thi nguyên tắc PPP này, ví dụ như chi phí hành chính để thực thi các quy định quản lý môi trường, chi phí xác định mức thiệt hại dô ô nhiễm môi trường, chi phí xác định chủ thể gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm cho thiệt hại môi trường.
Trong những khuyến nghị đầu tiên về nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền, Tổ chức OECD đã đưa ra các khoản chi phí người gây ô nhiễm phải trả theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các khoản chi phí phát sinh do vấn đề ô nhiễm (OECD, 1992). Lúc này, nguyên tắc PPP có thể được hiểu như là một “nguyên tắc không trợ cấp cho ô nhiễm môi trường”, có nghĩa là bất kỳ các khoản chi phí nào phát sinh do ô nhiễm mà được tài trợ chi trả từ nguồn thu ngân sách nhà nước đều được coi như là không phù hợp với nguyên tắc PPP. Nói cách khác, người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm chi trả tất cả các chi phí phát sinh do vấn đề ô nhiễm.
Những hiểu lầm về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền:
Trong số nhiều hiểu lầm về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP), có hai điều nổi bật. Đầu tiên, người ta cho rằng ‘người gây ô nhiễm trả tiền’ có nghĩa là nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp dịch vụ là người gây ô nhiễm và do đó chỉ người đó phải trả chi phí dọn dẹp, thiệt hại hoặc ngăn ngừa ô nhiễm. Rằng chi phí được chia sẻ với người tiêu dùng dường như không công bằng. Tuy nhiên, trên thực tế, người tiêu dùng nên nhận được tín hiệu tại thị trường rằng sản phẩm được đề cập đang gây ô nhiễm. Do đó, hoàn toàn phù hợp với quan hệ đối tác công – tư rằng giá thị trường của các sản phẩm gây ô nhiễm phải tăng so với các sản phẩm ít gây ô nhiễm hơn. Khi đó, người tiêu dùng có động lực để phản hồi bằng cách thay đổi hành vi của họ giống như các nguyên tắc hướng dẫn về PPP yêu cầu. Ý tưởng rằng người tiêu dùng không nên trả tiền có xu hướng được thể hiện trong mối lo ngại về tác động lên lạm phát. Vì giá của các sản phẩm gây ô nhiễm tăng lên, mức lạm phát tổng thể có thể tăng lên. Điều này có xu hướng phản ánh sự nhầm lẫn về mục đích của PPP và xuất hiện trong mối quan tâm thứ hai.
Thứ hai, PPP được nhiều người coi là một loại thuế và do đó nó là một phương tiện để tạo ra nguồn thu từ thuế. Trên thực tế, PPP phù hợp với bất kỳ phương thức nào khiến người gây ô nhiễm phải trả tiền, ví dụ: bằng cách thiết lập các tiêu chuẩn môi trường đòi hỏi chi phí cho thiết bị giảm thiểu ô nhiễm. Nhưng ngay cả khi PPP dưới hình thức thuế. Tuy nhiên, nó là một khoản phí khuyến khích – mục đích của nó là thay đổi hành vi, không phải để tăng doanh thu. Nó sẽ có tác dụng nâng cao thu nhập từ thuế nếu các nhà sản xuất hoặc người tiêu dùng bị ‘nhốt’ vào các công nghệ hoặc sản phẩm hiện có, tức là họ không thể tìm thấy các sản phẩm thay thế sẵn sàng. Nhưng sau đó, PPP khuyến khích cả các đại lý tìm kiếm công nghệ mới và sản phẩm thay thế. Về lâu dài, gánh nặng thuế đối với mỗi đại lý có thể được giảm thiểu vì người tiêu dùng và nhà sản xuất sẽ thay thế các sản phẩm ít gây ô nhiễm hơn bằng các sản phẩm gây ô nhiễm. trong khi cơ quan thuế có thể trả lại bất kỳ khoản thu nào tăng cho ngành công nghiệp và người tiêu dùng dưới hình thức cắt giảm các loại thuế khác. Bằng cách làm cho thuế ô nhiễm trở thành ‘trung lập về doanh thu’, không cần thuế phải làm cho bất kỳ ai trở nên tồi tệ hơn.
Ứng dụng thực tiễn nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền:
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền được ứng dụng phố biến ở các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Pháp luật Việt Nam quy định nhiều hình thức tả tiền cho hành vi gây ô nhiễm. Việc trả tiền này được thể hiện qua các hình thức khác nhau như thuế, phí, …. Tiêu biểu có thể kể đến như:
* Thuế tài nguyên: Đây là loại thuế đánh vào việc khai thác tài nguyên trên lãnh thổ Việt Nam của các cá nhân, tổ chức. Hành vi khai thác tài nguyên thiên nhiên có thể là hành vi trực tiếp gây ra ô nhiễm môi trường hoặc cũng có thể là hành vi gián tiếp gây ra ô nhiễm môi trường. Mục đích của thuế này là áp đặt lên một nghĩa vụ tài chính đối với các cá nhân, tổ chức thì mới được thực hiện hành vi khai tác tài nguyên, từ đó nhằm hạn chế việc khai thác tài nguyên, sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
* Thuế bảo vệ môi trường: loại thuế này áp dụng đối với các sản phẩm, hàng hóa mà khi sử dụng tác động xấu đến môi trường. Có thể thấy rằng loại thuế này áp dụng ngay đối với các chủ thể sản xuất, sử dụng các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường. Việc áp dụng thuế này nhằm nâng cao nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội khi sử dụng, sản xuất các loại sản phẩm, hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, từ đó khuyến khích việc sản xuất, sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường.
* Phí bảo vệ môi trường: đây là khoản tiền mà các cá nhân, tổ chức có hành vi xả thải vào môi trường hoặc có hành vi khác tác động đối với môi trường. (Luật Bảo vệ môi trường). Hành vi xả thải ra môi trường chính là hành vi trực tiếp gây ô nhiễm môi trường, nên dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, thì những cá nhân, tổ chức xả thải phải nộp phí bảo vệ môi trường.
Ngoài ra còn có thể có các loại thuế, phí,.. khác thể hiện sự ứng dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền trên thực tế như tiền phải trả để cấp quyền khai thác tài nguyên (ký quỹ), thuế đánh vào chất thải tiềm năng, tiền mua hạn ngạch phát thải, tiền phải trả cho việc dịch vụ thủy lợi, quản lý môi trường, tiền phục hồi môi trường,….
Những thách thức của nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền:
Tuy nhiên, có một số thách thức với nguyên tắc trả tiền cho người gây ô nhiễm. Trước hết, đôi khi có thể khó xác định và truy tìm kẻ gây ô nhiễm. Các cơ sở công nghiệp cũng có thể cố gắng che giấu sự thật rằng họ phải chịu trách nhiệm về một sự kiện ô nhiễm. Chi phí quản lý được chi để xác định tác nhân gây ô nhiễm, và lưu giữ họ, cũng có thể là đáng kể.
Một số loại ô nhiễm môi trường kéo dài và kinh khủng. Người ta có thể tranh luận rằng ngay từ đầu nên có những quy định nghiêm ngặt hơn, để giúp tránh mọi thảm họa và ô nhiễm độc hại lâu dài, hơn là để giải quyết vấn đề sau khi ô nhiễm đã xảy ra. Không thể bù đắp một số hiểm họa môi trường bằng bồi thường tài chính, và hệ sinh thái rộng lớn hơn, cũng như sức khỏe của cộng đồng, có thể bị tổn hại không thể khắc phục trong nhiều năm.
Như vậy, Luật Công ty luật LHD đã giải đáp cho các bạn hiểu một số vấn đề pháp lý về nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Trong trường hợp quý khách có bất kỳ thắc mắc cần giải đáp liên quan đến pháp luật, quý khách có thể liên hệ qua:
Hotline 0375.990.945;
Email: congtyluatlhd77@gmail.com để được tư vấn trực tiếp bởi Luật sư Hà, Luật sư Trung và các Luật sư có kinh nghiệm khác.